Chuyển đến nội dung chính

Dữ liệu giá đất thị trường (mang tính chất tham khảo)

Quản lý thuế và lệ phí 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ LỆ PHÍ

1.1. Khái niệm thuế
1.1.1. Khái niệm về thuế
Khi xã hội loài người được hình thành cần có một tổ chức lãnh đạo được lập ra và hoạt động nhằm đem đến lợi ích cho tất cả mọi người. Điều này đặt ra phải có một quỹ chung để thực hiện và chi cho các công việc cần thiết do vậy thuế được hình thành.
Thuế được áp dụng lần đầu tiên ở Ai Cập cổ đại vào khoảng năm 3000-2900 trước Công nguyên. Nếu không trả tiền, trốn thuế hoặc chống lại việc nộp thuế sẽ bị phạt theo quy định của pháp luật. Hiện nay, thuế đã trở thành một công cụ không thể thiếu ở bất cứ xã hội nào. Nhà nước đặt ra chế độ thuế khóa do dân cư đóng góp để có tiền chi tiêu cho sự tồn tại và hoạt động của mình.
Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào trên thế giới thống nhất về thuế. Đứng ở các góc độ khác nhau của các nhà kinh tế khác nhau lại có một khái niệm khác nhau về thuế. Cụ thể:
Một trong những khái niệm về thuế đó là: “Thuế là một khoản thu bắt buộc, không bồi hoàn trực tiếp của Nhà nước đối với các tổ chức và các cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước vì lợi ích chung”.
Ngoài ra còn có khái niệm khác “Thuế là một khoản phí tài chính bắt buộc hoặc một số loại thuế khác áp dụng cho người nộp thuế (một cá nhân hoặc pháp nhân) phải trả cho một tổ chức chính phủ để tài trợ cho các khoản chi tiêu công khác nhau”.
Theo quy định của Luật Quản lý thuế năm 2019 của Việt Nam, thì thuế là một khoản nộp ngân sách nhà nước bắt buộc của tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân theo quy định của các luật thuế.
Như vậy, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của thuế
Các khoản thu thuế được tập trung vào Ngân sách nhà nước là những khoản thu nhập của nhà nước được hình thành trong quá trình nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thuế có các đặc điểm như sau:
- Thuế là khoản đóng góp bằng tiền: trong xã hội hiện đại, thuế là khoản đóng góp bằng tiền. Về nguyên tắc, thuế là một khoản đóng góp dưới hình thức tiền tệ. Điều này trái ngược với các hình thức thanh toán bằng hiện vật đã tồn tại trước đây. Sự phát triển của quan hệ hàng hóa – tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thuế, đổi lại, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế được thực hiện bằng tiền lại góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường.
- Tính bắt buộc / cưỡng chế: Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc. Thuế là nguồn thu chính của nhà nước và nhà nước dùng số tiền đó cho việc cung cấp cho các lợi ích cho quốc gia như các cơ sở vật chất, quốc phòng, pháp luật, y tế, môi trường,…để phục vụ cho người dân. Tính bắt buộc để đảm bảo rằng mọi công dân phải đóng thuế. Tính bắt buộc xuất phát từ việc nhà nước là người cung ứng phần lớn hàng hóa công cộng cho xã hội. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng ấy, nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình để nhân dân phải nộp. Đây là nghĩa vụ của mỗi công dân và đã được ghi nhận trong hiến pháp của mỗi quốc gia.
- Tính chất không hoàn trả trực tiếp: Nghĩa là công dân sẽ không được nhà nước trả trực tiếp lại số tiền mà mình đã đóng, nhưng công dân sẽ được nhận lại gián tiếp qua việc được hưởng các dịch vụ công cộng mà nhà nước sử dụng tiền thuế để tạo ra. Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện kể cả trước và sau thu thuế. Các cá nhân, tổ chức đã nộp thuế cho nhà nước cũng không có quyền đòi hỏi nhà nước phải cung cấp trực tiếp cho họ một lượng hàng hóa hay dịch vụ cụ thể. Nhưng công dân có quyền nêu ý kiến của mình nếu số tiền thuế đóng quá cao mà trong khi đó mà nhận lại từ các dịch vụ quá thấp, nhân dân cũng có thể kiểm tra việc chi tiêu của ngân sách nhà nước thông qua đại biểu của họ ở các cơ quan đại diện.
- Thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao: Thuế được quyết định bởi quyền lực chính trị của nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện bằng pháp luật. Các luật thuế sẽ do các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành.
- Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - pháp luật.
Khi xã hội còn tồn tại những mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp thì thuế còn được nhà nước áp dụng nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước (phục vụ cho gia cấp thống trị). Như vậy, bản chất của thuế là sự cưỡng chế nguồn tài chính từ nhân dân được thực hiện bởi nhà nước. Tính cưỡng chế là đặc tính cơ bản nhất của thuế. Mọi nỗ lực nhằm hướng tới một hệ thống thuế có tính chất “tự nguyện” đều nhanh chóng bị đổ vỡ. Tại sao thuế lại có tính cưỡng chế? Câu trả lời rất đơn giản: không ai muốn nộp thuế dù cho họ có rất nhiều tiền đi chăng nữa. Trong khi đó bất cứ nhà nước nào cũng phải cần có ngân sách để tối thiểu là duy trì bộ máy hoạt động của bản thân nhà nước. Tính “cưỡng chế”, do đó, trở thành điều kiện cần và đủ của bất kỳ hệ thống nào trên thế giới. Không chỉ các nhà kinh tế học tư sản mà ngay cả K. Marx cũng phải thừa nhận rằng: Thuế, đó là “Nghĩa vụ cần thiết để nuôi dưỡng nhà nước pháp quyền, thuế là nguồn sống… đối với nhà nước hành pháp.
- Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
1.2. Chức năng và vai trò của thuế
1.2.1. Chức năng của thuế
- Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế.
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế. Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà nước.
Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào NSNN. Phần lớn thuế là đánh trên hàng hóa và thu nhập. Người có thu nhập cao và có tiền chi tiêu cho nhiều hàng hóa hơn là người nộp thuế nhiều hơn. Nói cách khác, những người giàu có là những người phải chịu nhiều thuế (tính về số tuyệt đối) hơn. Số tiền này sau đó lại được nhà nước chi tiêu vào hàng hóa công cộng, trợ cấp hưu trí, bệnh tật,… tạo ra tính công bằng tương đối cho xã hội. Đây chính là chức năng phân phối và phân phối lại của thuế. Cũng theo các suy luận trên, trong một chừng mực đáng kể, chức năng phân phối và phân phối lại đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết kinh tế của thuế. Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng tăng. Điều này được giải thích bởi sự mở rộng các chức năng của nhà nước và việc thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đó có việc can thiệp của nhà nước vào các quá trình kinh tế.
- Chức năng điều tiết kinh tế.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào qũy đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngay càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh.
Bàn đến chức năng điều tiết kinh tế của thuế có nghĩa là phải xem thuế như là một tác nhân tích cực của quá trình tái phân phối và thông qua đó tác động đến qua trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Chức năng này không tách rời khỏi chức năng phân phối và phân phối lại của thuế mà cả hai chức năng đều có quan hệ tác động hỗ tương rất chặt chẽ. Tại các nước tư bản công nghiệp phát triển và ngày nay, kể cả tại các nước đang phát triển, chức năng điều tiết kinh tế của thuế ngày càng được chú ý và được tăng cường đáng kể.
Một hệ thống thuế ổn định sẽ tác động đáng kể vào các hoạt động của nền kinh tế, cụ thể là theo ba hướng sau:
Thứ nhất, thuế sẽ ảnh hưởng đến mức độ và cơ cấu của tổng cầu; đồng thời thông qua cơ chế cung – cầu thị trường, thuế có thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất. Điều này phụ thuộc rất lớn vào thu nhập mà người dân sử dụng: nếu người dân dành hầu hết thu nhập của mình cho tiêu dùng thì sự thay đổi mức thuế đánh vào tiêu dùng ngay lập tức tác động vào mức cầu cá nhân và ảnh hưởng đến tổng mức cầu có khả năng thanh toán được của nền kinh tế. Cụ thể là thuế sẽ làm giảm thu nhập của nhân dân. Với việc làm nhỏ đi phần thu nhập có thể chi tiêu cho các hộ gia đình, mức thuế cao hơn có xu hướng làm cho các hộ gia đình giảm mức chi cho tiêu dùng của họ, do đó làm giảm mức cầu và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế. Ngoài ra, thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng. Việc giảm thuế đánh vào máy móc, thiết bị hay thu nhập có được từ việc đầu tư sản xuất, kinh doanh sẽ làm tăng sự đầu tư vào sản xuất kinh doanh làm khả năng sản xuất của nền kinh tế.
Thứ hai, thuế thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định tiền lương. Bởi vì khi tính toán tiền lương, giới chủ nhân và người làm thuê bao giờ cũng chú ý đến tiền thuế như là một yếu tố của tiền lương phải được xem xét tới.
Thứ ba, thuế hàng hóa, thuế lợi tức còn tác động đến việc mua sắm, sử dụng và phục hồi tài sản cố định (TSCĐ) trong doanh nghiệp. TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, thường xuyên bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình cho đến khi không còn tác dụng nữa. Sau đời phục vụ của mình, TSCĐ cần được phục hồi. Việc phục hồi này được tiến hành bằng các lập quỹ khấu hao. Quỹ khấu hao là một loại quỹ được hình thành từ một bộ phận lợi tức không phải chịu thuế. Quy mô của quỹ khấu hao – trong chừng mực đáng kể – chịu sự tác động của mức thuế (nhất là thuế lợi tức).
Giữa hai chức năng (chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều tiết kinh tế) của thuế tồn tại mối quan hệ chặt chẽ. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điều tiết kinh tế. Nhưng chức năng điều tiết kinh tế của thuế cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập. Nguồn tài chính mà nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can thiệp của nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của nhà nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.
1.2.2. Vai trò của thuế
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Thuế giữ vai trò quan trọng trong xã hội hiện tại nếu không có thuế nhà nước sẽ không thể hoạt động vững mạnh.
Thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất, mang tính chất ổn định lâu dài đối với ngân sách của Nhà nước. Khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng.
Thuế là công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô: Góp phần thực hiện chức năng kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thuế tham gia điều tiết nền kinh tế gồm hai mặt: Kích thích và hạn chế. Thông qua thuế, nhà nước đã linh hoạt điều chính các chính sách thuế trong từng thời kỳ nhất định, nhằm tác động vào cung-cầu giúp điều chỉnh chu kỳ kinh tế – một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
Thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Thông qua thuế, nhà nước sẽ điều tiết phần chênh lệch thu nhập giữa người giàu và người nghèo, bằng việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng.

1.3. Phân loại thuế
1.3.1. Phân loại thuế theo tính chất của nguồn tài chính nộp vào ngân sách nhà nước
Nếu dựa theo tính chất của nguồn tài chính nộp vào ngân sách nhà nước thì thuế được chia thành hai loại là thuế gián thu và thuế trực thu. Cụ thể:
- Thuế gián thu: là thuế đánh vào giá trị hàng hoá khi nó lưu chuyển trên thị trường; là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là người chịu thuế, nó được tính vào sản phẩm hoặc dịch vụ mà cá nhân người dùng là người chịu thuế. Đây là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế.
Ở Việt Nam các khoản thuế thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế trực thu: là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các pháp nhân hoặc thể nhân khi có các tài sản hoặc thu nhập được quy định nộp thuế. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế cũng chính là là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế.
Ở Việt Nam, các khoản thuế thuộc loại thuế trực thu gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất.
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
* Các điểm khác nhau giữa thuế trực thu và gián thu
Khác nhau Thuế trực thu Thuế gián thu
Mức độ tác động vào nền kinh tế Ít tác động vào giá cả thị trường (vì thường đánh vào kết quả kinh doanh, kết quả thu nhập sau một kỳ kinh doanh) Ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường (vì thuế được cộng vào giá bán hàng hóa dịch vụ)
Mức độ quản lý Khó thu; dễ trốn thuế nhất là đối với các nước đang phát triển, việc thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt; nhà nước không kiểm soát được thu nhập thực tế của người nộp thuế. Dễ thu thuế vì được cấu thành giá bán hàng hóa, dịch vụ.
Hầu hết các nước nghèo, thuế gián thu là nguồn thu chủ yếu. Trong khi đó, các nước phát triển lại lấy thuế trực thu là nguồn thu chính của ngân sách.
1.3.2. Phân loại thuế theo đối tượng đánh thuế
Dựa theo đối tượng đánh thuế thì thuế được chia thành các loại như sau:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm: như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế đánh vào thu nhập: Những loại thuế đánh vào thu nhập chỉ thực hiện đối với những đối tượng có giá trị thặng dư phát sinh từ tài sản của họ. Thuế đánh vào thu nhập về cơ bản bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
- Thuế đánh vào tài sản: như thuế nhà đất.
- Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
1.4. Đối tượng nộp thuế và cơ quan quản lý thuế
1.4.1. Đối tượng nộp thuế
Theo quy định của Luật Quản lý thuế 2019, đối tượng nộp thuế bao gồm:
- Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
- Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước.
- Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế.
1.4.2. Cơ quan quản lý thuế
Các cơ quan quản lý thuế bao gồm:
- Cơ quan thuế bao gồm Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế, Chi cục Thuế khu vực;
- Cơ quan hải quan bao gồm Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan, Cục Kiểm tra sau thông quan, Chi cục Hải quan.

1.5. Các quy định về quản lý thuế
1.5.1. Nội dung quản lý thuế
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ cấu có thể có để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Trong khi đó quản lý tài chính công là quá trình Nhà nước hoạch định, xây dựng chính sách, chế độ; sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp thích hợp tác động đến các hoạt động của tài chính công, làm cho chúng vận động phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế-xã hội, nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chức năng do Nhà nước đảm nhận.
Quản lý thuế rõ ràng là một nội dung của quản lý nhà nước về kinh tế. Ngoài ra, nó là một nhánh quan trọng của quản lý tài chính công. Do vậy, khái niệm quản lý thuế cũng có một số nét tương đồng với hai khái niệm trên. “Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu ngân sách nhà nước (NSNN) thực hiện”… “Đó là những hoạt động thường xuyên của cơ quan thu hướng về phía đối tượng nộp nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng luật định”. Với quan niệm như vậy, quản lý thuế bao gồm xây dựng kế hoạch thu thuế, tổ chức các biện pháp hành thu và tổ chức bộ máy ngành thuế. Trong hoạt động quản lý, các vấn đề về chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, công cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý là những yếu tố trung tâm đòi hỏi phải được xác định đúng đắn.

Nội dung quản lý thuế gồm:
- Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.
- Hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế.
- Khoanh tiền thuế nợ; xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; miễn tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm nộp; gia hạn nộp thuế; nộp dần tiền thuế nợ.
- Quản lý thông tin người nộp thuế.
- Quản lý hóa đơn, chứng từ.
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế và thực hiện biện pháp phòng, chống, ngăn chặn vi phạm pháp luật về thuế.
- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế.
- Xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
- Hợp tác quốc tế về thuế.
- Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế.

1.5.2. Nguyên tắc quản lý thuế

- Mọi tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của luật.

- Cơ quan quản lý thuế, các cơ quan khác của Nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý thu thực hiện việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý thuế; áp dụng các nguyên tắc quản lý thuế theo thông lệ quốc tế, trong đó có nguyên tắc bản chất hoạt động, giao dịch quyết định nghĩa vụ thuế, nguyên tắc quản lý rủi ro trong quản lý thuế và các nguyên tắc khác phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

- Áp dụng biện pháp ưu tiên khi thực hiện các thủ tục về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật về hải quan và quy định của Chính phủ.

1.5.3. Các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý thuế

- Thông đồng, móc nối, bao che giữa người nộp thuế và công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế để chuyển giá, trốn thuế.

- Gây phiền hà, sách nhiễu đối với người nộp thuế.

- Lợi dụng để chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép tiền thuế.

- Cố tình không kê khai hoặc kê khai thuế không đầy đủ, kịp thời, chính xác về số tiền thuế phải nộp.

- Cản trở công chức quản lý thuế thi hành công vụ.

- Sử dụng mã số thuế của người nộp thuế khác để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hoặc cho người khác sử dụng mã số thuế của mình không đúng quy định của pháp luật.

- Bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ không xuất hóa đơn theo quy định của pháp luật, sử dụng hóa đơn không hợp pháp và sử dụng không hợp pháp hóa đơn.

- Làm sai lệch, sử dụng sai mục đích, truy cập trái phép, phá hủy hệ thống thông tin người nộp thuế.

1.5.4. Đồng tiền khai thuế, nộp thuế

- Đồng tiền khai thuế, nộp thuế là Đồng Việt Nam, trừ các trường hợp được phép khai thuế, nộp thuế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.

- Người nộp thuế hạch toán kế toán bằng ngoại tệ theo quy định của Luật Kế toán phải quy đổi ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh giao dịch.

- Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, đồng tiền nộp thuế là Đồng Việt Nam, trừ các trường hợp được phép khai thuế, nộp thuế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Tỷ giá tính thuế thực hiện theo quy định của pháp luật về hải quan.

- Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định đồng tiền khai thuế, nộp thuế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi và tỷ giá giao dịch thực tế.

1.5.5. Giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế

- Người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế, cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế phải thực hiện giao dịch điện tử với cơ quan quản lý thuế theo quy định của Luật này và pháp luật về giao dịch điện tử.

- Người nộp thuế đã thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế thì không phải thực hiện phương thức giao dịch khác.

- Cơ quan quản lý thuế khi tiếp nhận, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuế cho người nộp thuế bằng phương thức điện tử phải xác nhận việc hoàn thành giao dịch điện tử của người nộp thuế, bảo đảm quyền của người nộp thuế quy định tại Điều 16 của Luật Quản lý thuế.

- Người nộp thuế phải thực hiện yêu cầu của cơ quan quản lý thuế nêu tại thông báo, quyết định, văn bản điện tử như đối với thông báo, quyết định, văn bản bằng giấy của cơ quan quản lý thuế.

- Chứng từ điện tử sử dụng trong giao dịch điện tử phải được ký điện tử phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.

- Cơ quan, tổ chức đã kết nối thông tin điện tử với cơ quan quản lý thuế thì phải sử dụng chứng từ điện tử trong quá trình thực hiện giao dịch với cơ quan quản lý thuế; sử dụng chứng từ điện tử do cơ quan quản lý thuế cung cấp để giải quyết các thủ tục hành chính cho người nộp thuế và không được yêu cầu người nộp thuế nộp chứng từ giấy.

- Cơ quan quản lý thuế tổ chức hệ thống thông tin điện tử có trách nhiệm sau đây:

Hướng dẫn, hỗ trợ để người nộp thuế, tổ chức cung cấp dịch vụ về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế, ngân hàng và các tổ chức liên quan thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.

Xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống tiếp nhận và xử lý dữ liệu thuế điện tử bảo đảm an ninh, an toàn, bảo mật và liên tục.

Xây dựng hệ thống kết nối thông tin, cung cấp thông tin về số tiền thuế đã nộp ngân sách nhà nước, thông tin về tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan bằng điện tử để thực hiện các thủ tục hành chính cho người nộp thuế theo quy định.

Cập nhật, quản lý, cung cấp các thông tin đăng ký sử dụng giao dịch thuế điện tử của người nộp thuế; xác thực giao dịch điện tử của người nộp thuế cho các cơ quan, tổ chức phối hợp thu ngân sách nhà nước để thực hiện quản lý thuế và quản lý thu ngân sách nhà nước.

Tiếp nhận, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính thuế cho người nộp thuế bằng phương thức điện tử.

Trường hợp chứng từ điện tử của người nộp thuế đã được lưu trong cơ sở dữ liệu của cơ quan quản lý thuế thì cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế phải thực hiện khai thác, sử dụng dữ liệu trên hệ thống, không được yêu cầu người nộp thuế cung cấp hồ sơ thuế, chứng từ nộp thuế bằng giấy.

- Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định hồ sơ, thủ tục về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.

1.5.6. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế

Rủi ro về thuế là nguy cơ không tuân thủ chính sách pháp luật thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của người nộp thuế dẫn đến thất thu ngân sách nhà nước trong quản lý thu thuế.

Quản lý rủi ro về thuế là việc phân loại, đánh giá người nộp thuế (NNT) dựa trên hệ thống tiêu thức rủi ro về thuế. Từ đó xác định NNT có mức độ tuân thủ thấp và khả năng gian lận về thuế cao để tập trung nguồn lực xử lý nhằm nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của NNT theo nguyên tắc ưu tiên nguồn lực quản lý gian lận có thể mang lại tổn thất lớn nhất, và những sai phạm có nhiều khả năng xảy ra nhất.

Từ ngày 2/7/2021, quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế sẽ được thực hiện theo Thông tư 31/2021/TT-BTC.

Người nộp thuế được đánh giá, phân loại theo một trong các mức độ tuân thủ pháp luật thuế như sau:

Mức 1: Tuân thủ cao.

Mức 2: Tuân thủ trung bình.

Mức 3: Tuân thủ thấp.

Mức 4: Không tuân thủ.

Mức độ tuân thủ pháp luật thuế và mức độ rủi ro người nộp thuế được xác định theo một hoặc kết hợp các phương pháp dưới đây:

- Phương pháp chấm điểm và phân loại theo điểm.

- Phương pháp học máy.

- Phương pháp xếp hạng theo danh mục.

Các biện pháp nâng cao tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế:

- Đối với trường hợp tuân thủ cao: Đưa vào danh sách xem xét, lựa chọn tuyên dương, khen thưởng người nộp thuế tuân thủ pháp luật thuế.

- Đối với các trường hợp cần nâng cao tuân thủ:

+ Phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan, các đại lý thuế để triển khai các biện pháp hỗ trợ người nộp thuế thực hiện các thủ tục về thuế; tổ chức các chương trình tiếp xúc với người nộp thuế, hội nghị đối thoại, hội thảo, đào tạo giúp người nộp thuế thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ thuế.

+ Nghiên cứu sửa đổi chính sách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, triển khai các biện pháp hỗ trợ, ứng dụng công nghệ thông tin để việc kê khai, nộp thuế được thuận tiện, tiết kiệm thời gian và chi phí tuân thủ cho người nộp thuế.

1.6. Sự ra đời và phát triển của hệ thống thuế ở Việt Nam

1.6.1. Chế định thuế dưới thời phong kiến

a. Chế định thuế dưới triều đại nhà Trần

Lịch sử Việt Nam mặc dù đã hình thành từ rất lâu nhưng cho đến tận thể kỷ XI, đời vua Trần Thái Tông (1225 - 1237) thì việc đánh thuế mới được hình thành một cách có tổ chức và có hệ thống. Vào thời nhà Trần có 2 loại thuế chính được áp dụng đó là thuế thân và thuế điền. Trong đó:

- Thuế thân: là khoản thuế được đóng bằng tiền. Số tiền thuế phải đóng hàng năm được xác định dựa trên diện tích ruộng của người dân. Cụ thể, người có một, hai mẫu ruộng thì phải đóng 1 quan tiền/ 1 năm; người có 4 mẫu thì đóng 2 quan/năm; ai có 5 mẫu trở lên thì đóng 3 quan/năm; người không có mẫu nào thì không phải đóng thuế.

- Thuế điền (thuế ruộng): là khoản thuế đóng bằng thóc. Một mẫu ruộng tư thì chủ điền phải đóng 100 thăng thóc (1 thăng=2,765 lít). Còn ruộng công thì: đối với ruộng quốc khố thì hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch (1thạch =4 quân, 1 quân=30 cân, 1 cân=0,6kg) , hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch, hạng ba mỗi mẫu 3 thạch; đối với thác điền (ruộng thưởng cho quan lại có công): hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 1 thạch thóc; hạng nhì 3 mẫu lấy 1 thạch; hạng ba 4 mẫu lấy 1 thạch. Với ruộng ao thì mỗi mẫu lấy 3 thăng thóc thuế. Ruộng muối thì phải đóng bằng tiền.

b. Chế định thuế dưới triều đại nhà Hồ

Từ thời nhà Trần việc đóng thuế đã trở thành lệ và hầu như không thay đổi đáng kể vào thời nhà Hồ. Chỉ có quy định tăng hạn ngạch thuế thân: cứ 2 mẫu 6 sào trở lên thì đóng 3 quan tài tiền mặt một năm.

c. Chế định thuế dưới triều đại nhà Lê

Ngoài thuế ruộng (thuế điền), ở triều đại nhà Lê còn đặt thêm thuế đất (thổ và thuế đất bãi trồng dâu nuôi tằm.

d. Chế định thuế dưới thời chúa Trịnh

Ngoài việc duy trì các loại thuế như trước, Chúa Trịnh ở miền bắc còn đặt ra thêm các loại thuế khác như:

- Thuế mỏ (khai thác hầm mỏ), thuế đò (lệ phí giao thông), thuế chợ, thuế thổ sản có thể xem như thuế tài nguyên bây giờ.

- Thuế tuần tuy: đánh vào các thuyền buôn.

- Thuế muối: tăng thuế muối cao hơn thời nhà Trần.

- Thuế thổ sản: đánh vào các loại hàng hóa như vàng, bạc, đồng, kẽm, tre, gỗ, tơ, lụa...

e. Chế định thuế dưới thời Chúa Nguyễn

Ở miền nam, ngoài thuế điền, thuế mỏ, chúa Nguyễn đặt ra thêm thuế xuất cảng, nhập cảng đánh vào các tàu buôn ngoại quốc cập bến và dời bến.

f. Chế định thuế dưới thời nhà Nguyễn

Thời Vua gia Long: Bên cạnh việc quy định lại các loại thuế như thuế thân, thuế điền, vua Gia Long còn đặt ra các loại thuế mới như:

-Thuế sản vật: đánh vào cây quế (đánh vào việc khai thác cây quế ở rừng), ai đóng thuế sản vật cây quế thì được miễn trừ thuế thân.

-Thuế yến: đánh vào khai thác yến sào, ai nộp thuế yến thì được tha việc binh lính.

- Thuế hương liệu, thuế sâm, thuế gỗ...tất cả nộp bằng tiền hoặc sản vật.

- Ðịnh lại thuế đánh vào các tàu bè ngoại quốc ra vào buôn bán.

- Thuế mỏ.

Thời vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị: Chế độ thuế vẫn duy trì như thời vua Gia Long.

Thời Vua Tự Ðức: Có thêm thuế nha phiến đánh vào việc bán thuốc phiện.

1.6.2. Chế định thuế dưới thời Pháp thuộc

Cơ chế tài chính do Pháp thiết lập ở Ðông Dương đầu thế kỷ XX không nằm ngoài mục đích bao trùm là vơ vét của cải của thuộc địa. Dưới thời Pháp thuộc, thuế được huy động vào hệ thống ngân sách thuộc địa gồm nhiều tầng nấc, nhưng lại không được chuyển thành nguồn tài trợ cho sự phát triển của xã hội mà lại được chuyển về chính quốc, theo đúng mục tiêu của chủ nghĩa thực dân. Chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra các thuế ngoại ngạch tức là loại thuế gián thu như thuế tiêu thụ thuốc lá, thuế rượu, thuế muối, thuế đoan (thuế quan); thuế trực thu thì có thuế môn bài, thuế thổ trạch. Hệ thống ngân sách của nhà nước thuộc địa bao gồm:

Ngân sách Ðông Dương và các ngân sách phụ thuộc của nó là: ngân sách đặc biệt về tiền vay nợ và ngân sách riêng của sở hoả xa.

Ngân sách các xứ bên trong liên bang: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Cao miên, Ai lao và Quảng Châu văn.

Ngân sách các tỉnh và thành phố.

Ngân sách xã ở các làng.

Trên thực tế, một hệ thống ngân sách như vậy đã thể hiện tính chất bóc lột và vơ vét của thực dân Pháp. Đây chính là một trong những nguyên nhân đã tạo tiền đề quan trọng dẫn đến cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/ 1945, chấm dứt ách đô hộ của chế độ thực dân Pháp tồn tại gần 100 năm.

1.6.3. Chế định thuế thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm 1975

a. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 đến năm 1954

Chính sách pháp luật thuế thống nhất bao gồm 7 loại thuế là: thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp, thuế hàng hóa, thuế xuất nhập khẩu, thuế sát sinh, thuế trước bạ, thuế tem.

Trong số các loại thuế này thì thuế nông nghiệp giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên các loại thuế này vẫn chưa được cấu trúc thành một hệ thống pháp luật thuế hoàn chỉnh và cũng chưa có tác dụng đáng kể.

b. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975

Ðây là giai đoạn mà nền tài chính nước ta đứng trước nhiều thuận lợi và thử thách mới. Một mặt, Việt Nam đã đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi một cách vĩnh viễn, nhưng mặc khác, đất nước lại bị chia cắt. Sau hiệp định Geneve, Chính phủ chỉ lần lượt ban hành các loại Luật thuế mới trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các chế độ thuế đã ban hành từ năm 1951 ở vùng tự do cũ để áp dụng thống nhất, bao gồm 12 loại thuế sau: thuế doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế sát sinh, thuế buôn chuyến, thuế thổ trạch, thuế kinh doanh nghệ thuật, thuế môn bài, thuế trước bạ, thuế muối, thuế rượu, thuế xuất nhập khẩu và thu quốc doanh.

c. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1990

- Thời kỳ 1975 - 1980: Trong thời kỳ này, miền Bắc vẫn tiếp tục thực hiện hệ thống pháp luật thuế đã ban hành từ trước, có sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Còn miền Nam thì có áp dụng một số loại thuế cũ của chính quyền Sài Gòn trên cơ sở xóa bỏ một số loại thuế phản tiến bộ và sửa đổi bổ sung để thích ứng với điều kiện đất nước thống nhất.

- Thời kỳ 1980 -1990: Trong thời kỳ này, cả nước áp dụng hệ thống pháp luật thuế thống nhất, nhưng hệ thống pháp luật thuế hiện hành này ngày càng tỏ ra có nhiều nhược điểm, cản trở sự phát triển các yếu tố của nền kinh tế thị trường như xuất hiện sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Cụ thể, doanh nghiệp quốc doanh thì thực hiện chế độ thu quốc doanh, thu trích nộp lợi nhuận cùng với các hình thức thu khác. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác lại chịu sự tác động của thuế.

- Giai đoạn từ 1990 đến nay:

Từ giữa những năm 1980, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, hệ thống pháp luật thuế Việt Nam đã được nghiên cứu và đến năm 1990 một hệ thống pháp luật thuế mới được hình thành, bao gồm hệ thống chính sách pháp luật thuế và hệ thống quản lý Nhà nước về thuế. Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hình thành một hệ thống pháp luật thuế hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, bao gồm 9 loại thuế: thuế nông nghiệp, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế thu nhập, thuế nhà đất, thuế vốn (khoản thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước). Ngoài ra còn có một số phí và lệ phí có tính chất như thuế như: lệ phí môn bài, lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông....

1.7. Chế độ sở hữu đất đai và các quy định về thuế liên quan đến bất động sản của một số nước trên thế giới

1.7.1. Chế độ sở hữu, quản lý đất đai và các quy định về thuế liên quan đến bất động sản của Thụy Điển

a. Chế độ sở hữu và quản lý đất đai

Thụy Điển là một vương quốc ở Bắc Âu có diện tích tự nhiên là 449.964 km², là nước lớn thứ ba trong Liên minh châu Âu với dân số khoảng 9,4 triệu người. Thuỵ Điển có mật độ dân số thấp với 21 người/ km² nhưng lại tập trung cao ở nửa phía Nam của đất nước, trong đó có khoảng 85% dân số sống ở thành thị. Pháp luật của Thụy Điển theo hệ thống Dân luật.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Thụy Điển ban hành các luật để quản lý các lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực đất đai, Thụy Điển có một Bộ luật về quản lí đất đai. Bộ luật Đất đai của Thụy Điển có hiệu lực năm 1972, hàng năm có thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn, tuy nhiên về cơ bản vẫn giữ nguyên. Bộ luật này chủ yếu quy định về vấn đề sở hữu; vấn đề về thuế do luật thuế quy định; vấn đề về chuyển nhượng, thừa kế do luật khác quy định. Dưới Bộ luật có các Luật điều chỉnh về các vấn đề cụ thể, như: Luật Bất động sản, Luật điều chỉnh và pháp lý hóa về quyền, Luật về quyền địa dịch, Luật về quyền tự do báo chí; Luật bảo mật các thông tin cá nhân; Luật về Đăng ký bất động sản; Luật về bản quyền tác phẩm; Luật về thông tin dịch vụ công; Luật xây dựng đường bộ; Luật xây dựng đường sắt; Luật Dân sự và Luật Hình sự; Luật về trưng mua...

Ở Thụy Điển, sở hữu tư nhân về đất đai chiếm chủ yếu, ngoài ra còn có sở hữu của chính quyền địa phương (ví dụ: đất của các khu vực nuôi hươu, cá nhân có thể di chuyển đàn hươu của mình đến chăn thả tại các khu vực thuộc sở hữu của chính quyền địa phương) hoặc sở hữu bất động sản của các công ty bất động sản... Cũng như đa phần các nước thuộc Liên minh Châu Âu (Đức, Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Bỉ...), Thụy Điển không có bất cứ hạn chế nào về sở hữu và sử dụng đất và không có quy định đặc biệt đối với người nước ngoài sở hữu, sử dụng đất đai so với công dân trong nước. Một nhà đầu tư nước ngoài có thể mua đất và đầu tư theo những quy định áp dụng cho công dân bản địa.

Hệ thống quản lý đất đai của Thụy Điển bao hàm trách nhiệm của cơ quan Đo đạc bản đồ, cơ quan Đăng ký đất đai và cơ quan Địa chính

Cơ quan Đăng ký có nhiệm vụ nạp các thông tin vào hệ thống; cơ quan Địa chính (đo đạc) có nhiệm vụ xác định ranh giới, chia tách, đo đạc, xác định tính pháp lí của thửa đất, chủ sở hữu; cơ quan Thông tin có nhiệm vụ cung cấp thông tin đất đai cho người sử dụng. Quản lý hành chính đất đai của Thụy Điển được thực hiện theo 3 cấp gồm: cấp Trung ương; cấp vùng (có 21 bang, giống như tỉnh); cấp quản lý hành chính địa phương (có 290 đơn vị cấp huyện (hạt), mỗi hạt đều có một văn phòng địa chính).

Việc quản lý đất đai tại Thụy Điển bắt nguồn từ quá trình bảo vệ quyền sử dụng đất và từ việc cai quản đất đai. Việc bảo vệ quyền sử dụng đất và thực hiện những giao dịch hợp pháp luôn có tầm quan trọng đối với người dân. Trước đây, các tòa án địa phương là thể chế chính thực hiện những công việc quản lý đó. Một trong những nhân tố quan trọng đối với mỗi nhà nước chính là việc bảo đảm quyền sử dụng đất, thúc đẩy sự phát triển tài nguyên đất cũng như việc tài trợ cho các hoạt động dựa trên các khoản đóng góp từ việc sử dụng đất và thuế. Hệ thống địa chính đầu tiên được thành lập ở Thụy Điển nhằm thu thuế từ người sử dụng đất. Từ hệ thống đó, việc quản lý đất đai đã phát triển thành cở sở hạ tầng chung của cả nước cung cấp thông tin về đất đai.

Hệ thống thông tin đất đai của Thụy Điển là nền tảng của cơ sở hạ tầng dữ liệu không gian quốc gia và có trách nhiệm cung cấp thông tin phục vụ quản lý đất đai, sở hữu đất và cho các hoạt động kinh doanh trong xã hội. Hệ thống này đã được số hóa trên phạm vi toàn quốc kể từ năm 1995 và được quy định trong Bộ Luật đăng ký bất động sản. Hệ thống đăng ký bất động sản, vốn là hệ thống trung tâm bao gồm một phần chung để xác định các vật thể, các lô đất địa chính, lịch sử của chúng, vị trí, khu vực, các quy định về quyền sử dụng đất, các tọa độ, bản đồ địa chính và các bản đồ chỉ dẫn, kí hiệu của tài sản - số hiệu bất động sản (duy nhất, riêng biệt). Thửa đất địa chính với số hiệu nhận dạng duy nhất riêng biệt chính là cơ sở để đăng ký quyền về tài sản trong thủ tục đăng ký đất đai, là cơ sở để đăng ký sử dụng đất và các giá trị phục vụ cho việc tính thuế, đăng ký đóng thuế và là cơ sở cho việc đăng ký của công dân trong thủ tục đăng ký hộ khẩu. Thủ tục đăng ký thuế và hộ khẩu là các thủ tục đăng ký riêng biệt được điều hành bởi Cơ quan thuế và nó có liên quan đến Luật Đăng ký bất động sản. Việc sử dụng các đơn vị địa chính trong một số hệ thống hành chính là một phần rất quan trọng của cơ sở hạ tầng thông tin đất đai Thụy Điển.

b. Quy định về thuế

Các khoản thuế liên quan đến bất động sản của Thụy Điển được quy định cụ thể trong đạo luật về thuế bất động sản và thuế tài sản, cụ thể:

Thuế bất động sản thu trên giá trị nhà và đất: Loại thuế này được thực hiện đối với nhà xây dựng, các loại đất xây dựng và các loại đất khác như: đất ở, đất bao quanh nhà, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng khác do tư nhân sở hữu (không áp dụng đối với bất động sản sử dụng vào mục đích công cộng). Đối tượng nộp thuế là chủ sở hữu đất và nhà. Căn cứ tính thuế được xác định dựa trên diện tích, giá đất tính thuế và thuế suất, trong đó giá đất tính thuế được xác định 6 năm một lần. Căn cứ để xác định giá tính thuế là giá của từng loại đất trên thị trường của 2 năm trước, phân biệt theo vị trí và một số chỉ tiêu tổng hợp về hiệu quả kinh tế và chất đất, thường bằng 75% giá thị trường của 2 năm trước. Thuế suất áp dụng thống nhất là 1,5%/năm.

Thuế tài sản: Pháp luật quy định giá trị đất của hộ nông dân, chủ trang trại còn phải nộp chung với tài sản của từng hộ (bao gồm nhà, đất, cổ phần, cổ phiếu, tiền gửi ngân hàng...) để đánh thuế tài sản nếu tài sản chung có giá trị đến 800.000 SEK/năm trở lên. Thuế tài sản được tính theo biểu thuế lũy tiến từng phần với 3 mức thuế suất như sau: thuế suất là 1,5% đối với tổng giá trị tài sản từ 800.000 SEK đến dưới 1.300.000 SEK; thuế suất là 2,6% đối với tổng giá trị tài sản từ 1.300.000 SEK đến 3.600.000 SEK; thuế suất là 3% đối với tổng giá trị tài sản từ 3.600.000 SEK trở lên.

Lệ phí trước bạ: quy định bằng 1,5% giá trị bất động sản.

Thuế thu nhập doanh nghiệp là 22% thu nhập chịu thuế.

1.7.2. Chế độ sở hữu, quản lý đất đai và các quy định về thuế liên quan đến bất động sản của Australia

a. Chế độ sở hữu và quản lý đất đai

Liên bang Australia là một quốc gia nằm ở Nam bán cầu với diện tích tự nhiên là 7.692.024 km2 (đứng thứ sáu trên thế giới). Australia là nước duy nhất chiếm toàn bộ một lục địa và cũng là nước lớn nhất trong khu vực châu Úc - châu Á - châu Đại Dương. Australia có sáu tiểu bang và hai vùng lãnh thổ chính nằm trên đại lục. Ngoài ra, còn có một vài lãnh thổ phụ khác nằm dưới sự quản lý của chính phủ liên bang.

Chính quyền liên bang Australia phân cấp nhiệm vụ quản lý đất đai cho chính quyền các bang. Tại Australia công tác đăng ký đất, lập bản đồ địa chính đã được hoàn thiện từ rất sớm, vì vậy rất thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu địa chính số, từ đó làm nền tảng cho việc hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu về đất đai tại từng bang. Vì vậy ngày nay, việc cung cấp các dịch vụ có liên quan đến đất đai và bất động sản như các giao dịch về quyền sở hữu, định giá, tính thuế, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phát triển nói chung, việc sử dụng thông tin cho các ngành, lĩnh vực có liên quan đã trở thành một bộ phận không thể thiếu về lớp thông tin cơ bản cho công tác quản lý nhà nước cũng như cung cấp dịch vụ, tiện ích cho xã hội.

Công tác quản lý nhà nước, xác định tính pháp lý về các hoạt động đo đạc địa chính, đăng ký quyền sở hữu đất đai và các dịch vụ liên quan đến đất đai, định giá đất, xây dựng hệ thống thông tin đất đai do cơ quan quản lý đất đai của các Bang giữ nhiệm vụ chủ trì. Các cơ quan này đều phát triển theo hướng sử dụng một phần đầu tư của chính quyền bang và chuyển dần sang cơ chế tự trang trải chi phí. Việc triển khai các hoạt động đo đạc, đăng ký, định giá do các cá nhân, tổ chức hành nghề tư nhân (được cấp phép) thực hiện trên cơ sở hợp đồng dân sự đối với chủ sở hữu hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Tại Australia, các ngành nghề đo đạc, định giá được quản lý rất chuyên nghiệp thông qua các tổ chức, hội nghề nghiệp với nhiệm vụ đào tạo, phát triển nghề nghiệp, cấp phép và quản lý về chất lượng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của các cá nhân, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ này. Nhiệm vụ quy hoạch phát triển, quy hoạch sử dụng đất, phát triển quỹ đất (các dự án) do chính quyền địa phương (các hạt/thành phố trực thuộc bang) chịu trách nhiệm quản lý nhà nước. Việc triển khai cụ thể có thể giao cho một tổ chức, công ty tư nhân thực hiện.

Tại các bang của Australia, đất thuộc sở hữu nhà nước của bang chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng diện tích đất của bang. Các Chính phủ bang sở hữu khoảng 70% tổng diện tích đất của bang, do đó Chính phủ bang cho các tổ chức, cá nhân thuê để hoạt động sản xuất, kinh doanh và làm dịch vụ. Giá thuê đất được xác định theo tỷ lệ phần trăm (từ 1% đến 5%), trong đó tại các thành phố lớn phổ biến là 5%, thuế đất của Nữ hoàng có tỷ lệ cao hơn.

b. Quy định về thuế

Australia quy định các loại tài sản phải chịu thuế bao gồm nhà và đất thuộc sở hữu tư nhân; đất thuộc khu công nghiệp; cơ sở hạ tầng tư nhân hóa có diện tích lớn như cảng, nhà máy tinh chế; trung tâm thương mại - cửa hàng; tòa nhà văn phòng; tài sản nông thôn. Loại tài sản không phải chịu thuế bao gồm các tài sản thuộc sở hữu của Chính phủ, hội đồng và các tài sản sử dụng cho mục đích công như trường học, nhà thờ, bệnh viện và các công trình giao thông. Đối với đất nông nghiệp, tùy theo giá trị của đất mà có các cách tính thuế khác nhau nhưng thuế suất cơ bản được tính như sau: thuế đất được tính toán dựa trên giá trị của đất trừ (-) đi ngưỡng chịu thuế (năm 2015 là 432.000 USD) và nhân (x) 1,6% cộng (+) 100 $. Đất trong khu vực nông nghiệp, khu dân cư nông thôn hoặc đất không thuộc vùng đô thị dùng cho sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sẽ được miễn thuế đất. Cụ thể: đất dùng để nuôi động vật, phát triển nhân giống các con vật, trồng cây, nuôi ong, trồng hoa, hoa lan, nấm, nuôi cá, trang trại cá, hải sản, vườn ươm.

1.7.3. Chế độ sở hữu, quản lý đất đai và các quy định về thuế liên quan đến bất động sản của Trung Quốc

a. Chế độ sở hữu và quản lý đất đai

Luật Quản lý đất đai của Trung Quốc được xây dựng vào các năm 1954, 1975, 1978 và 1982. Trong đó, Luật Quản lý đất đai năm 1982 là bộ luật hoàn chỉnh nhất. Từ năm 1982 Luật Quản lý đất đai Trung Quốc đã được sửa đổi 4 lần (qua các năm 1988, 1993, 1999 và năm 2004). Luật Quản lý đất đai đề cập đến việc sử dụng các biện pháp pháp lý và hành chính quốc gia của hệ thống sở hữu đất đai và sử dụng hợp lý các hoạt động quản lý tài nguyên đất được thực hiện để điều chỉnh một loạt các quy phạm pháp luật nói chung.

Theo quy định pháp luật, Trung quốc có 2 hình thức sở hữu đối với đất đai là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Trong đó, đất đô thị thuộc sở hữu Nhà nước, đất vùng nông thôn phần lớn thuộc sở hữu tập thể. Quyền sử dụng đất được tách ra khỏi quyền sở hữu để giao cho người sử dụng đất. Nguyên tắc tách rời quyền sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới chính là bảo lưu quyền sở hữu đất đai của nhà nước, quyền kinh doanh giao cho doanh nghiệp.

Nhà đầu tư nước ngoài có thể sở hữu các công trình trên đất khi mua hoặc khi được hưởng quyền sử dụng đất cho một mục đích và thời hạn cụ thể. Quyền sử dụng đất không bao gồm quyền sử dụng tài nguyên, khoáng sản hoặc tài nguyên dưới lòng đất. Thông thường, công trình trên đất phải được sở hữu bởi cùng một đối tượng được quyền sử dụng đất.

Trung Quốc quy định 3 loại quyền sử dụng đất bao gồm quyền sử dụng đất được cấp, quyền sử dụng đất được giao, thuê công trình và quyền sử dụng đất. Trong đó:

Quyền sử dụng đất được cấp: là hình thức quyền sử dụng đất phổ biến nhất và ban đầu thường có được trực tiếp từ các chính quyền địa phương thông qua việc nộp lại một khoản phí cố định. Thời hạn sử dụng tối đa phụ thuộc vào mục đích sử dụng đất, cụ thể: 40 năm đối với đất thương mại, du lịch và công trình công cộng giải trí; 59 năm đối với đất sử dụng cho mục đích công nghiệp, giáo dục, khoa học, công nghệ, văn hóa, y tế hoặc thể thao; 70 năm cho đất ở. Quyền sử dụng đất được cấp nhìn chung có thể chuyển nhượng, thế chấp tự do không cần xin phép cơ quan có thẩm quyền, nhưng các giao dịch này cần được đăng ký tại cơ quan quản lý đất đai. Đơn xin gia hạn cấp quyền sử dụng đất phải được nộp ít nhất trước 1 năm trước khi hết thời hạn được cấp.

Quyền sử dụng đất được giao: là hình thức quyền sử dụng đất được nhà nước giao không thu tiền cho một giai đoạn nhất định, thông thường là giới hạn mục đích sử dụng ví dụ như sử dụng cho mục đích quân sự, chính phủ, các dự án hạ tầng và công trình công cộng. Luật pháp không cấm các công ty và cá nhân nước ngoài xin giao quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do bị các hạn chế về sử dụng và chuyển nhượng, các cá nhân và tổ chức nước ngoài thường không sử dụng các quyền này (trừ các dự án hạ tầng hoặc công trình công cộng là ngoại lệ). Nhìn chung, quyền sử dụng đất được giao trước tiên nên được chuyển thành quyền sử dụng đất được cấp để có thể thực hiện chuyển nhượng, nhưng đây là một quy trình cồng kềnh và khó khăn.

Thuê công trình và quyền sử dụng đất: Các công ty nước ngoài thông thường hay thuê trụ sở (văn phòng hoặc trụ sở cùng với các quyền sử dụng đất tương ứng) hơn là mua quyền thanh toán một lần. Thời hạn thuê tối đa là 20 năm và có thể được gia hạn khi hết hạn. Việc thuê quyền sử dụng đất không có công trình thường rất hiếm xảy ra tại Trung Quốc vì ít giá trị sử dụng.

Đất đai ở Trung Quốc được quản lý ở 2 cấp là Trung ương và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nội dung quản lý chủ yếu tại cấp Trung ương là xét duyệt quy hoạch sử dụng đất; xét duyệt dự án chuyển từ đất nông nghiệp sang đất xây dựng, thu hồi đất, thanh tra và giám sát việc quản lý, sử dụng đất đai. Cấp huyện chủ yếu thực hiện việc đăng ký, chuyển nhượng, xử lý vi phạm đất đai. Ngoài ra, chính quyền các cấp cũng tích cực tạo điều kiện để phát triển thị trường đất đai bằng việc lập và cấp phép thành lập các tổ chức định giá, môi giới, tư vấn, giao dịch bất động sản.

b. Quy định về thuế

Hiện nay, ở Trung Quốc đang tồn tại nhiều sắc thuế khác nhau (thuế sử dụng đất đô thị và thị trấn, thuế sở hữu đất nông trại, thuế nhà, thuế khế ước...) mà đối tượng chịu thuế là nhà ở và đất ở.

Thuế sử dụng đất đô thị và thị trấn: Được thu đối với đất ở, đất sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân sử dụng đất tại đô thị và nông thôn. Căn cứ tính thuế dựa trên diện tích thực tế nhân với mức thuế suất tuyệt đối được xác định. Khung thuế suất tuyệt đối hàng năm được xác định trên cơ sở diện tích đất thực tế đang sử dụng theo từng khu vực cụ thể. Các địa phương căn cứ vào khung thuế suất quy định cụ thể cho địa phương mình để tính thuế. Khung thuế suất được xác định theo 4 cấp như sau: từ 0,5 đến 10 nhân dân tệ/m2 đối với đô thị lớn; từ 0,4 đến 8 nhân dân tệ/m2 đối với đô thị trung bình; từ 0,3 đến 6 nhân dân tệ/m2 đối với đô thị nhỏ; từ 0,2 đến 4 nhân dân tệ/m2 đối với thị trấn và khu mỏ. Đối với các vùng nghèo, khoản thuế phải nộp trên đơn vị có thể được xem xét thấp hơn ở mức trên. Đối với các vùng phát triển khoản thuế có thể được tăng lên. Việc miễn giảm thuế được thực hiện đối với đất của các cơ quan nhà nước, quân đội, các cơ sở tôn giáo, công viên và các di tích lịch sử, công trình phúc lợi, các công trình tưới tiêu, đường phục vụ hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

Thuế sử dụng đất nông nghiệp: Thuế đất nông nghiệp được Trung Quốc áp dụng trong một thời gian dài, nhưng đến ngày 01/01/2006 Trung Quốc đã bãi bỏ loại thuế này nhằm hỗ trợ sự phát triển của khu vực nông nghiệp.

Thuế giá trị tăng thêm của đất: Phần giá trị tăng thêm của đất là khoản thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản trừ đi một số khoản khấu trừ theo quy định (chi phí để có quyền sử dụng đất; giá thành, chi phí khai thác đất; giá thành, chi phí xây dựng nhà mới và thiết bị đồng bộ hoặc định giá nhà cũ và công trình kiến trúc; tiền thuế liên quan đến chuyển nhượng BĐS; các khoản khấu trừ khác theo quy định của Bộ Tài chính). Tuy nhiên, trên thực tế nhiều địa phương (Thiên Tân, Thâm Quyến, Hạ Môn) vẫn chưa thực thi sắc thuế này. Hơn nữa, hiệu quả của sắc thuế này cũng còn hạn chế.

Thuế thu nhập cá nhân: Trung Quốc vừa áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, vừa áp dụng thuế giá trị tăng thêm của đất (từ năm 1994) khi tổ chức, cá nhân chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công trình kiến trúc trên đất. Căn cứ tính thuế dựa vào thu nhập tính thuế và thuế suất, trong đó thu nhập chịu thuế được xác định bằng cách lấy giá chuyển nhượng trừ đi giá vốn và các chi phí hợp lý theo quy định pháp luật; mức thuế suất quy định là 20%.

Thuế khế ước (trước bạ): quy định mức thuế suất từ 1,5%; đối với nhà đặc biệt, mức thuế suất lên đến 3%.

Thuế nhà: Được thu đối với nhà ở, nhà sử dụng cho kinh doanh tại các thành phố, thị xã, thị trấn. Căn cứ tính thuế được tính dựa trên giá trị nhà hoặc tiền thuê nhà nhân (x) với thuế suất. Giá nhà do các địa phương quy định cụ thể dựa trên chi phí xây dựng nhà tại địa phương đó. Thuế suất quy định đối với nhà chính chủ là 1,2% trên giá trị ngôi nhà sau khi đã trừ 10% - 30% giá trị ban đầu. Thuế suất quy định đối với nhà thuê là 12% trên tiền thuê nhà. Nhà nước quy định không thu thuế nhà ở đối với nhà sử dụng cho các cơ quan nhà nước, quân đội; nhà cho các mục tiêu tôn giáo; nhà quản lý trong các công viên, khu di tích.

1.7.4. Chế độ sở hữu đất đai và các quy định về thuế liên quan đến bất động sản của Hàn Quốc

a. Chế độ sở hữu và quản lý đất đai

Hàn Quốc hiện là một nước dân chủ toàn diện và theo chế độ cộng hòa tổng thống bao gồm 16 đơn vị hành chính, có diện tích 100.140 km2. Hàn Quốc có 3 hình thức sở hữu đất đai gồm: quốc hữu, công hữu và tư hữu. Hình thức tư hữu chiếm 70% diện tích đất. Người dân có toàn quyền trên diện tích đất thuộc sở hữu của mình, kể cả bán hoặc cho người nước ngoài thuê. Tuy nhiên, nếu người dân sở hữu đất vào mục đích nông nghiệp thì không được chuyển mục đích nếu không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất. Hàn Quốc có đạo luật riêng quy định việc sở hữu đất đai của người nước ngoài, trong đó quy định sở hữu đất đai chỉ được áp dụng đối với công dân các nước có trao quyền tương tự cho công dân Hàn Quốc. Các loại đất liên quan đến an ninh quốc phòng, cơ sở văn hóa, khu bảo tồn... còn có các ràng buộc cụ thể hơn tại các đạo luật: bảo vệ cơ sở quân sự, bảo tồn di sản văn hóa, luật bảo tồn môi trường...

Hệ thống quản lý đất đai Hàn Quốc được tổ chức theo 3 cấp: Trung ương, cấp tỉnh (15 tỉnh) và cấp huyện. Trong đó:

Cấp Trung ương: có Cục Địa chính trực thuộc Bộ Nội vụ (Nha Địa chính) thực hiện các chức năng hoàn thiện hệ thống địa chính, nghiệp vụ của uỷ ban địa chính trung ương, nghiệp vụ của trung tâm thông tin đất đai quốc gia; hướng dẫn, kiểm soát các văn phòng địa chính.

Cấp tỉnh: có Sở Địa chính thực hiện các chức năng: nghiệp vụ và quản lý trung tâm đất đai địa phương; thẩm quyền kiểm tra đo đạc, nghiệp vụ uỷ ban địa chính địa phương; hướng dẫn, kiểm soát các văn phòng địa chính và các chi nhánh của tổ chức.

Cấp huyện: có phòng Địa chính thực hiện các nhiệm vụ: bảo quản và quản lý các hồ sơ địa chính; thẩm quyền đo đạc địa chính; quản lý ban và các thủ tục, đo đạc và xác định giá đất niêm yết cho một thửa; hướng dẫn và kiểm soát các văn phòng địa phương.

Tại Hàn Quốc, chính quyền địa phương quản lý đất đai thông qua các công việc như: định giá đất; quản lý các phiên giao dịch đất đai; quản lý, lập kế hoạch sử dụng đất và các dịch vụ dân sự.

Hệ thống thông tin đất đai được Hàn Quốc tập trung xây dựng từ năm 1988 - 2010 với các giai đoạn cụ thể như sau: từ năm 1988 đến năm 1996 xây dựng hạ tầng mạng Quốc gia giai đoạn 1 và 2; từ năm 1995 - 2000 xây dựng hệ thống thông tin đất đai giai đoạn 1 với nhiệm vụ tập trung số hóa các loại bản đồ, phát triển hệ thống thông tin thửa đất), xây dựng hệ thống thông tin đất đai tích hợp; từ năm 2001 - 2005 xây dựng hệ thống thông tin đất đai giai đoạn 2 để vận hành thử nghiệm hệ thống, mở rộng trên phạm vi toàn quốc, hoàn thiện công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai; từ năm 2006 - 2010, xây dựng hệ thống thông tin đất đai giai đoạn 3 với mục tiêu liên kết và quy tập dữ liệu từng ngành, từng cơ quan, hoàn thiện hệ thống tổng hợp thông tin địa lý quốc gia. Từ năm 2010 - 2012, Hàn Quốc xây dựng chính sách thông tin địa lý quốc gia lần thứ 4 nhằm sử dụng tài nguyên đất đai một cách hợp lý để hỗ trợ phát triển kinh tế. Hiện nay, Hàn Quốc đang xây dựng kế hoạch cơ bản chính sách thông tin địa lý lần 5 (giai đoạn 2013 - 2017) nhằm giúp nâng cao khả năng thích ứng với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, điện thoại thông minh, tích hợp thông tin địa lý là yếu tố cốt lõi của Chính phủ, cung cấp dịch vụ phù hợp với toàn dân. Hệ thống thông tin đất đai được xây dựng gồm các hợp phần chức năng sau: (1) hệ thống hỗ trợ hành chính đất đai trong cấp phép giao dịch đất đai, cấp phát giấy chứng nhận, quản lý giá đất; (2) hệ thống quản lý hồ sơ địa chính với chức năng quản lý biến động đất đai, chỉnh sửa hồ sơ, xuất trích đo bản đồ, tra cứu văn bản, quản lý thống kê đo đạc; (3) hệ thống quản lý bản đồ địa chính với chức năng thiết lập lớp bản đồ, tra cứu thông tin thửa đất biên tập bản đồ, chia tách thửa đất; (4) hệ thống quản lý cấp tỉnh và trung ương với nhiệm vụ tiếp nhận xử lý trực tuyến các dịch vụ hành chính công, tạo số liệu thống kê, giám sát tình hình sử dụng đất cấp dưới.

b. Quy định về thuế

Ở Hàn Quốc, một số loại thuế liên quan đến đất đai - bất động sản được quy định như sau:

- Thuế mua, tiếp nhận tài sản:

Thuế mua: là loại thuế thu đối với người mua tài sản. Căn cứ tính thuế là giá trị bất động sản và thuế suất. Thuế suất được quy định theo 4 mức sau: 2% đối với bất động sản bình thường; 1% đối với nhà ở; 10% đối với bất động sản có mục đích sang trọng (cao cấp) như biệt thự sang trọng, sân golf, nhà ở cao cấp; 6% đối với cơ sở kinh doanh trong khu vực tăng trưởng vùng Thủ đô nhằm hạn chế sự tăng trưởng dân cư. Nhà nước cho phép chính quyền địa phương được phép điều chỉnh thuế tiêu chuẩn trong khoảng +/- 50% mức Chính phủ quy định.

Thuế đăng ký: thu thuế đối với người đăng ký tài sản mua. Cơ sở tính thuế là giá mua và thuế suất. Thuế suất quy định là 2% đối với tài sản bất động sản thông thường; 1% đối với nhà ở, đất trang trại; 0,8% đối với mua tài sản thừa kế; 0,3% đối với trang trại. Đăng ký các quyền bất động sản khác ngoài quyền sở hữu (chẳng hạn như thế chấp, thuê hoặc cho thuê) là 0,2%; đối với kinh doanh trong 7 thành phố đặc biệt là 6% (để hạn chế gia tăng dân số). Chính quyền địa phương được phép điều chỉnh thuế tiêu chuẩn trong khoảng +/- 50% mức thuế do Chính phủ quy định.

- Thuế sở hữu - sử dụng:

Thuế tài sản: Đối tượng chịu thuế là đất đai, căn cứ tính thuế là giá tiêu chuẩn do Bộ Đất đai, Giao thông, Hàng hải quy định nhân (x) 70%; nhà ở, bất động sản khác là giá chuẩn nhân (x) 60%. Thuế suất đất đai chung: 0,2 - 0,5% đối với đất đai cho các mục đích thông thường (nhà ở bình thường 0,15% - 0,5%, công nghiệp 0,5%; mục đích khác 0,25%); đất đai cho các mục đích cao cấp (sân golf, nhà ở cao cấp, bất động sản cao cấp) là 4%.

Thuế bất động sản toàn diện: áp dụng cho đối tượng chịu thuế là đất ở có giá trị trên 0,5 tỷ won; đất kinh doanh trên 8 tỷ won; nhà ở trên 6 triệu won. Mức thuế suất được áp dụng căn cứ vào giá trị theo ngưỡng chịu thuế, trong đó đất ở có 2 mức là 0,75% và 2%; đất kinh doanh có 5 mức là 0,5%, 0,7%, 0,75%, 1% và 2%.

- Thuế chuyển nhượng:

Thuế thu nhập cá nhân là khoản thuế đánh vào lợi nhuận thu từ việc bán các tài sản của hộ gia đình, cá nhân. Đối tượng chịu thuế là thu nhập từ chuyển nhượng đất đai, nhà cửa hoặc các quyền liên quan đến bất động sản. Căn cứ tính thuế là lấy giá bán - chi phí cần thiết bao gồm cả chi phí mua lại - khấu trừ đặc biệt đối với thời gian giữ/ sở hữu về đất đai và nhà cửa - khấu trừ cơ bản (2,5 triệu won). Thuế suất tiêu chuẩn quy định là 6%, các mức còn lại là 16%; 25%; 34%.

Chính phủ quy định miễn thuế thu nhập từ việc chuyển nhượng đất đai trong các trường hợp sau: thu nhập từ việc trao đổi, phân chia hoặc sáp nhập đất nông nghiệp thuộc các điều kiện quy định trong Nghị định của Tổng thống; thu nhập từ việc chuyển nhượng nhà của hộ gia đình được nêu trong Nghị định của Tổng thống (trừ trường hợp nhà ở cao cấp quy định trong Nghị định) và đất có diện tích nhỏ hơn toà nhà được xây dựng sẽ được quyết định bởi Nghị định của Tổng thống; thu nhập từ đất được đền bù cho đất nông nghiệp thuộc các điều kiện quy định trong Nghị định của Tổng thống; thu nhập từ việc cho thuê bất động sản, ruộng đất phát sinh từ việc sử dụng cho mục đích gieo trồng lương thực

Thuế thu nhập doanh nghiệp: Đối tượng chịu thuế là thu nhập chuyển nhượng bất động sản. Căn cứ tính thuế là thu nhập doanh nghiệp chịu thuế và thuế suất. Mức thuế suất được quy định như sau: đối với mức thu nhập chịu thuế dưới 0,2 tỷ won thì mức thuế suất là 11%; đối với mức thu nhập chịu thuế trên 0,2 tỷ won thì mức thuế suất là 22%. Nếu tính theo thuế lợi tức của doanh nghiệp thì mức thuế suất tiêu chuẩn quy định là 30%; đối với bất động sản chưa đăng ký thì chịu mức thuế suất là 40%.

1.7.5. Chế độ sở hữu đất đai và các quy định về thuế liên quan đến bất động sản của Thái Lan

a. Chế độ sở hữu và quản lý đất đai

Thái Lan là một quốc gia quân chủ lập hiến. Kinh tế Thái Lan phát triển nhanh từ 1985 đến 1995. Đất đai ở Thái Lan được chia làm 4 loại chính gồm: (1) đất rừng (chiếm 50,6%); (2) đất đai nhà nước hay bất động sản của Chính phủ kể cả đất trường học và Chính phủ cũng sẵn sàng cho thuê loại đất này; (3) đất đai của cơ quan hành chính và các xí nghiệp nhà nước do các cơ quan của Chính phủ quản lý bao gồm cả đất đai mà Nhà nước giao cho các tổ chức tôn giáo sử dụng; (4) đất công cộng được quản lý theo Bộ Luật đất đai và Cục Quản lý đất đai Thái Lan.

Hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở Thái Lan được chia làm 2 cấp trung ương và địa phương. Ở trung ương là Cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Nội vụ có chức năng nhiệm vụ cấp các giấy chứng nhận, đo đạc, kiểm tra, bảo vệ đất đai của Nhà nước; thanh tra giám sát việc cấp giấy phép, định giá đất, giao đất, làm thư ký cho Ủy ban giao đất quốc gia. Ở địa phương, mỗi tỉnh có một văn phòng đất đai cấp tỉnh và các chi nhánh, mỗi huyện cũng có một văn phòng đất đai cấp huyện và chi nhánh của nó.

b. Quy định về thuế

Tại Thái Lan, trước đây Nhà nước áp dụng cả thuế đất và thuế chuyển nhượng bất động sản, nhưng hiện nay, để khuyến khích mọi người sử dụng đất vào sản xuất, Nhà nước đã bỏ thuế đất. Thái Lan đang vận hành sắc thuế tài sản, không tách riêng nhà và đất khi đánh thuế. Đối tượng chịu thuế là nhà và đất để ở hay sử dụng vào mục đích thương mại do các tổ chức, cá nhân sử dụng. Căn cứ tính thuế là giá trị nhà đất và thuế suất. Thuế suất được thiết kế theo mục đích sử dụng như sau: thuế suất dưới 0,5% đối với nhà đất sử dụng cho mục đích thương mại; 1% đối với đất không sử dụng, đất bỏ hoang; dưới 0,1% đối với nhà ở thành thị; dưới 0,05% đối với nhà ở, đất ở nông thôn. Giá nhà, đất để tính thuế do cơ quan có thẩm quyền ở địa phương xác định và công bố theo định kỳ 3 năm một lần.

Đọc nhiều

Lãi kép

Thời tiết

HUẾ WEATHER